Đặc điểm loại hình của tiếng Việt

  • Tác giả: My Ly |
  • Cập nhật: 10/06/2022 |
  • Giáo dục |
  • 10591 Lượt xem
4/5 - (10 bình chọn)

Trong chương trình Ngữ Văn lớp 11, chúng ta được học về Đặc điểm loại hình của tiếng Việt. Để giúp Quý độc giả có thể có thêm thông tin tham khảo, chúng tôi thực hiện bài viết này. Mời Quý vị tham khảo:

Loại hình ngôn ngữ là gì?

Loại hình ngôn ngữ là một kiểu cấu tạo ngôn ngữ, trong đó bao gồm một hệ thống những đặc điểm có liên quan với nhau, chi phối lẫn nhau.

Có hai loại hình chính là: loại hình ngôn ngữ đơn lập và loại hình ngôn ngữ hòa kết. Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.

Đặc điểm loại hình của tiếng Việt

Đặc điểm loại hình của tiếng Việt như sau:

Thứ nhất: Tiếng là đơn vị cơ sở của ngữ pháp

– Về mặt ngữ âm, tiếng là âm tiết.

– Về mặt sử dụng, tiếng là từ hoặc yếu tố cấu tạo từ.

Ví dụ: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

– 7 tiếng / 7 từ / 7 âm tiết.

– Đọc và viết đều tách rời nhau

– Đều có khả năng cấu tạo nên từ: Trở về /  thôn xóm…

Thứ hai: Từ không biến đổi hình thái.

– Ví dụ: Tôi1 tặng anh ấy1 một cuốn sách, anh ấy2 tặng tôi2 một quyển vở.

– Từ trong Tiếng Việt không biến đổi hình thái khi biểu thị ý nghĩa ngữ pháp.

Thứ ba: Biện pháp chủ yếu để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp là sắp đặt từ theo thứ tự trước sau và sử dụng các hư từ.

(Hư từ: Phụ từ, Quan hệ từ, Tình thái từ.

Phụ từ: đã, sẽ, đang…

Quan hệ từ: và, vì, tuy… nhưng…

Tình thái từ: à, nhé, chính…)

 Ví dụ:

– Tôi ăn cơm / ăn cơm với tôi /  ăn phần cơm của tôi nhé.

– Tôi đang ăn cơm

– Tôi đã ăn cơm rồi

– Tôi sẽ ăn cơm

– Tôi vừa ăn cơm xong

– Trật tự sắp đặt từ ngữ và hư từ thay đổi thì ý nghĩa của câu cũng thay đổi.

Bài tập về Đặc điểm loại hình của tiếng Việt

Để giúp Quý độc giả hiểu hơn về Đặc điểm loại hình của tiếng Việt chúng tôi hướng dẫn Quý vị làm một số bài tập:

Bài 1 (trang 58 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Hãy phân tích những ngữ liệu dưới đây về mặt từ ngữ (chú ý những từ ngữ in đậm) để chứng minh tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.

 – Trèo lên cây bưởi hái hoa,

   Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

   Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,

   Em đã có chồng anh tiếc lắm thay!

(Ca dao)

– Thuyền ơi có nhớ bến chăng, 

   Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

 (Ca dao)

– Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho.

(Tục ngữ)

– Con đem con cá bống (1) ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một đem thả xuống cho bống (2)… Nói xong, Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống (3) xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống (4) . Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống (5) lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống (6) ngày một lớn lên trông thấy.

(Tấm Cám)

Trả lời:

– Hai cụm từ nụ tầm xuân đứng ở hai vị trí khác nhau. Tuy hình thức ngôn ngữ không thay đổi nhưng vai trò ngữ pháp của chúng trong câu có sự khác nhau. Cụm từ nụ tầm xuân thứ nhất giữ vai trò là bổ ngữ của câu (bổ sung ý nghĩa cho động từ hái). Trong khi đó, ở câu thứ ba, cụm từ nụ tầm xuân đóng vai trò là chủ ngữ của câu (chủ thể của quá trình nở).

– Hai từ bến được sử dụng trong hai câu ca dao nêu trên cũng có những ý nghĩa ngữ pháp khác nhau. Từ bến ở câu lục là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ nhớ. Từ bến thứ hai (trong câu bát) là chủ ngữ (chủ thể của trạng thái khăng khăng đợi thuyền). Cả hai từ bến này đều có nghĩa bóng chỉ người phụ nữ.

– Trong câu tục ngữ trên, dù hình thức ngôn ngữ giống nhau nhưng vai trò ngữ pháp của mỗi từ trẻ, già là khác nhau. Từ trẻ và từ già thứ nhất đều giữ vai trò là bổ ngữ cho các động từ (yêu và kính). Trong khi đó hai từ trẻ và già còn lại đã được chuyển loại (danh từ hoá) để giữ vai trò là chủ ngữ trong câu.

– Vai trò ngữ pháp của mỗi từ bống trong đoạn văn:

+ bống (1): là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ đem.

+ bống (2): là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ thả (xuống).

+ bống (3): là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ thả.

+ bống (4): bổ ngữ cho động từ đưa (ra).

+ bống (5): chủ ngữ của câu (chủ thể của hành động ngoi lên).

+ bống (6): là chủ ngữ của câu (chủ thể của quá trình ngày một lớn lên trông thấy).

=> Vị trí thay đổi + vai trò ngữ pháp thay đổi + hình thái từ không thay đổi

Những ngữ liệu trên được viết bằng tiếng Việt => tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.

Bài 2 (trang 58 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Tìm một câu tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp, tiếng Nga,…) đã học, đối chiếu với câu tự dịch ra tiếng Việt, so sánh, phân tích để đi đến kết luận: tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp, tiếng Nga,…) thuộc loại hình ngôn ngữ hòa kết, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.

Trả lời:

Ví dụ câu sau:

– Tiếng Anh: I saw her, three days ago.

– Dịch: Tôi thấy cô ta cách đây ba hôm.

Phân tích so sánh:

– Đặc điểm loại hình ngôn ngữ hòa kết của tiếng Anh trong câu ví dụ trên thể hiện ở:

+ Ranh giới các âm tiết không rõ ràng: các từ three, ago dù có dạng hai âm tiết nhưng chúng được phát âm nối liền nhau.

+ Từ có sự biến đổi về hình thức: từ saw (thấy, nhìn thấy) có hình thức tồn tại ở thì quá khứ. Thì hiện tại của từ này được viết là see. Cũng tương tự như vậy là trường hợp từ her (cô ấy). Trong câu này từ “cô ấy” không phải là chủ ngữ (she) mà nó đóng vai trò là tân ngữ, thế nên dạng thức tồn tại của nó là đại từ nhân xưng (her).

+ Trật tự từ không được sắp xếp theo thứ tự trước sau. Trạng ngữ của câu đặt ở cuối câu. Đồng thời ngay trong trạng ngữ thì trật tự thuận cũng bị đảo lộn: từ cách đây (ago) lại đặt sau phần chỉ thời gian (three days).

– Ngược lại với những đặc điểm nêu trên của tiếng Anh là những đặc điểm riêng của loại hình ngôn ngữ đơn lập trong câu dịch tiếng Việt:

+ Ranh giới các âm tiết rõ ràng (mỗi âm tiết được phát âm riêng biệt, tách rời): Tôi / thấy / cô / ta / cách / đây / ba / hôm.

+ Từ không có sự biến đổi về hình thức: bổ ngữ cô ta, động từ thấy.

+ Trật tự từ được sắp xếp theo đúng thứ tự trước sau.

Bài 3 (trang 58 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Xác định hư từ và phân tích tác dụng thể hiện ý nghĩa của chúng trong đoạn văn sau:

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.

(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập)

Trả lời:

Đoạn văn trên có hai hư từ đáng chú ý nhất là: đã và lại. Việc sử dụng hai từ này kết hợp với biện pháp tu từ điệp cấu trúc cú pháp và lối diễn đạt tầng bậc đã giúp Hồ Chí Minh khẳng định một chân lí chắc chắn, đó là: dân ta hoàn toàn chủ động đứng lên đánh đuổi thực dân, lật đổ giai cấp phong kiến lỗi thời, lập nên nhà nước dân chủ. Công lao đó thuộc về nhân dân ta chứ không phải là sự ban phát hay giúp đỡ của bên ngoài.

4/5 - (10 bình chọn)